CHUYÊN ĐỀ:
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM
Người biên soạn: Đinh Văn Long
Chánh án Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh
I. NHỮNG VIỆC CHUẨN BỊ ĐỂ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ VÀO PHÒNG XỬ ÁN
– Trao đổi với Hội thẩm nhân dân để thống nhất nội dung và kế hoạch xét hỏi. Có thể Thẩm phán phân công từng thành viên của Hội đồng xét xử phụ trách một phần xét hỏi cụ thể hoặc người tham gia tố tụng cụ thể để trách việc hỏi trùng lặp, không đúng trọng tâm giữa chủ tọa phiên tòa và các thành viên khác trong Hội đồng xét xử, thể hiện sự phối hợp của chủ tọa phiên tòa và các thành viên trong Hội đồng xét xử.
– Yêu cầu Thư ký kiểm tra sự có mặt của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, phổ biến nội quy phiên tòa và báo cáo Chủ tọa phiên tòa để mời Hội đồng xét xử (HĐXX) vào phòng xử.
II. THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN TÒA
2.1. Khai mạc phiên tòa
– Khi HĐXX vào phòng xử án, Thư ký yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy;
Hiện nay, có Thẩm phán sau khi HĐXX vào phòng xử án và mời mọi người ngồi xuống mới tuyên bố khai mạc phiên tòa, có Thẩm phán thì tuyên bố khai mạc phiên tòa xong mới mời mọi người ngồi xuống. Theo chúng tôi, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nên tuyên bố khai mạc phiên tòa mới mời mọi người ngồi xuống để thể hiện tính trang nghiêm hơn khi tuyên bố khai mạc phiên tòa.
– Sau khi khai mạc phiên tòa, thay mặt HĐXX Thẩm phán chủ tọa đứng đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trước khi đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu bị cáo đứng vào vị trí bục khai, yêu cầu mở khóa cho bị cáo nếu bị cáo đang bị khóa tay và những người tham gia tố tụng có giấy triệu tập của Tòa án phải đứng dậy để nghe quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Hiện nay, có nhiều phiên tòa khi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Chủ tọa vẫn để tất cả mọi người ngồi nghe, theo chúng tôi như thế là không đảm bảo tính uy nghiêm của phiên tòa khi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử.
-Sau khi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử, chủ tọa yêu cầu thư ký phiên tòa báo cáo HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người được Tòa án triệu tập và lý do vắng mặt.
2.2. Kiểm tra căn cước những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa
Tại khoản 3 Điều 301 BLTTHS quy định “Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án và kiểm tra lý lịch, phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ”.
Việc kiểm tra như thế nào, hiện nay cũng có những ý kiến khác nhau. Theo chúng tôi, việc kiểm tra lý lịch do chủ tọa tiến hành nhằm xác định đúng những người được Tòa án triệu tập và xác định đúng các thông tin về lý lịch, nhân thân của những người được triệu tập. Điều 301 BLTTHS quy định là “…kiểm tra lại sự có mặt của những người có mặt tại phiên tòatheo giấy triệu tập…” nên chỉ kiểm tra lý lịch đối với những người “có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập” và được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003, trong đó hướng dẫn về Điều 201- Thủ tục bắt đầu phiên tòa, tương ứng với Điều 301 của BLTTHS năm 2015-sửa đổi thành khai mạc phiên tòa,việc kiểm tra căn cước của những người được triệu tập và có mặt tại phiên toà được thực hiện như sau:
– Đối với bị cáo phải hỏi họ để họ khai về: họ tên; ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh; nơi cư trú (nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; nơi tạm trú); nghề nghiệp; trình độ học vấn; hoàn cảnh gia đình (bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con);
Khi kiểm tra nhân thân của bị cáo đã bị kết án lần nào chưa? nếu có thì bị kết án về tội gì, tòa án nào xử, thời gian xử, tù giam hay phạt tù cho hưởng án treo, đã chấp hành hình phạt xong chưa, (nếu trước đó bị cáo được hưởng án treo thì hỏi rõ tại lần bị xử cho hưởng án treo trước đây có bị tạm giữ, tạm giam không và thời gian bao lâu để trừ cho bị cáo nếu tổng hợp hình phạt của các bản án. Bị cáo có bị xử lý hành chính không, về hành vi gì, thời gian xử lý … để xác định tiền án, tiền sự, làm cơ sở cho việc định tội, định khung hình phạt hoặc tổng hợp hình phạt. Khi chủ tọa hỏi thì cần đối chiếu với các tài liệu trong hồ sơ vụ án xem có giống nhau hay không? nếu có sự khác nhau thì phải làm rõ vì sao có sự khác nhau.
Hỏi bị cáo đã nhận được Bản cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa. Nếu bị cáo chưa nhận được hoặc nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng dưới 10 ngày và yêu cầu hoãn phiên tòa thì HĐXX phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử mà không cần hoãn thì có thể tiến hành xét xử, nhưng phải giao cho bị cáo đọc kỹ các văn bản đó và phải có biên bản ghi nhận sự tự nguyện đó.
– Đối với người đại diện hợp pháp của bị cáo phải hỏi họ để họ khai về: họ tên; tuổi; nghề nghiệp; nơi sinh; nơi cư trú; quan hệ thế nào với bị cáo.
– Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ phải hỏi họ để họ khai về: họ tên; tuổi; nghề nghiệp; nơi cư trú. Trong trường hợp bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cơ quan, tổ chức thì khai về: tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức; họ tên; tuổi; nghề nghiệp; nơi cư trú của người đại diện hợp pháp cho cơ quan, tổ chức.
Trong trường hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của người được triệu tập (đặc biệt là bị cáo) về căn cước của họ có sự khác nhau thì cần phải xác định chính xác về căn cước của họ. Đối với bị cáo thì ngoài việc ghi họ tên chính thức, còn phải ghi đầy đủ họ tên mà họ đã khai trong quá trình điều tra.
Ví dụ: Họ tên bị cáo: Nguyễn Văn A (còn có các tên gọi khác: Nguyễn Trần A, Nguyễn Văn á…).
Đối với đại diện hợp pháp của bị hại, nếu bị hại đã chết mà có nhiều người đại diện thì tại phiên tòa cần hỏi họ xem họ có được những người khác ủy quyền hay không? nếu không mà tại phiên tòa những người khác có đến thì hỏi luôn tại phiên tòa xem họ có đồng ý để người đó làm đại diện hợp pháp hay không?.
2.3. Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác
Việc phổ biến quyền và nghĩa vụ hiện nay cũng có những cách thực hiện khác nhau, có chủ tọa thì phổ biến quyền và nghĩa vụ cho từng người tham gia tố tụng; có chủ tọa thì phổ biến gộp theo nhóm những người tham gia tố tụng có chung quyền và nghĩa vụ khi tham gia phiên tòa.
Theo chúng tôi, khi phổ biến quyền và nghĩa vụ thì chủ tọa phiên tòa nên phổ biến theo nhóm quyền hoặc nghĩa vụ mà những người tham gia tố tụng được hưởng hoặc phải thực hiện, như thế thì việc điều hành phiên tòa sẽ ngắn gọn và dễ hiểu hơn.
Khi phổ biến quyền và nghĩa vụ thì chủ tọa giải thích các quyền và nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng hiểu được các quyền và nghĩa vụ của mình. Một số quyền, khi phổ biến có thể hỏi ngay người tham gia tố tụng về việc thực hiện quyền đó. Căn cứ vào quy định tại các Điều 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69 và Điều 70 để phổ biến các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.
2.4. Giải quyết việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật
Sau khi chủ tọa phiên tòa giới thiệu thành viên HĐXX, kiểm sát viên, thư ký. Nếu có người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật thì chủ tọa giới thiệu họ tên, nghề nghiệp hoặc chức vụ của những người đó. Sau đó hỏi kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền xin thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật xem có ai đề nghị thay đổi hay không? Nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận, quyết định.
2.5. Giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
Sau khi phổ biến các quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng, Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt hoặc tuy có mặt tại phiên tòa nhưng vì lý do sức khỏe không thể tham gia tố tụng thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không; nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
III. XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA
3.1. Thủ tục xét hỏi chung
Sau khi chủ tọa phiên tòa đã làm xong phần thủ tục phiên tòa, chuyển sang phần xét hỏi, yêu cầu đại diện Viện kiểm sát công bố bản cáo trạng.
Kiểm sát viên trình bày bản cáo trạng có thể bổ sung ý kiến về bản cáo trạng chứ không phải bổ sung bản cáo trạng. Nghĩa là kiểm sát viên chỉ trình bày ý kiến làm rõ thêm nội dung của cáo trạng chứ không thêm hoặc bớt nội dung nào của cáo trạng.
Để việc xét hỏi đạt kết quả tốt, HĐXX phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội bằng cách đặt câu hỏi và nghe ý kiến trình bày của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đặc biệt là ý kiến của người làm chứng trong các vụ án điều tra truy xét, ý kiến của người giám định. Nếu cần thì phải xem xét vật chứng và các tài liệu khác hoặc phải xem xét tại chỗ. Mọi chứng cứ làm cơ sở cho HĐXX kết luận đểu phải được xem xét tại phiên tòa theo quy định tại Điều 250 BLTTHS năm 2015.
Trong quá trình xét hỏi, bất cứ lúc nào HĐXX cũng có thể đưa vật chứng ra xem xét hoặc công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để chứng minhcác tình tiết của vụ án.
Đối với vật chứng cần xem xét tại chỗ, cần yêu cầu người có liên quan đến vật chứng, bị cáo phài trình bày, mô tả vật chứng trước rồi mới đưa vật chứng ra.
Ví dụ: Bị cáo dùng thanh sắt để gây thương tích, yêu cầu mô tả kích thước, hình dạng, màu sắt …sau đó mới đưa vật chứng ra và hỏi các câu để làm rõ đặc điểm khách quan, liên quan và hợp pháp của vật chứng, làm rõ những vấn đề liên quan đến vật chứng; đối vật chứng không thể đưa ra phiên tòa thì cần công bố biên bản thu giữ và ảnh của vật chứng.
– Xem xét tại chỗ: Trường hợp cần xem xét địa điểm xảy ra tội phạm cũng như các địa điểm khác có liên quan đến vụ án hoặc cần xem xét vật chứng cồng kềnh mà không thể đưa đến phiên tòa thì HĐXX quyết định xem xét tại chỗ. Tùy theo địa điểm cần xem xét mà chủ tọa xác định thành phần tham gia xem xét tại chỗ, thông thường thành phần gồm có: HĐXX, kiểm sát viên, người bào chữa và những người có liên quan đến vật chứng. Quá trình xem xét, HĐXX có thể đặt câu hỏi để là rõ những thắc mắc liên quan đến địa điểm, vật chứng cần xem xét.
– Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của việc đặt câu hỏi:
Việc xét hỏi tại phiên tòa phải khách quan, công minh, không thể hiện ý thức chủ quan của người hỏi, không được thành kiến hay định kiến trước, không quy chụp hoặc đặt câu hỏi mớm cung hoặc bức cung. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng về nội dung và xác định về đối tượng cần được hỏi. Tránh đặt câu hỏi dài dòng, vòng vo làm cho người được xét hỏi khó nắm bắt để trả lời. Trong quá trình xét hỏi, có thể đặt ra các câu hỏi không trực tiếp liên quan đến đối tượng nhằm kiểm tra chứng cứ, lời khai.
Không nên đặt câu hỏi yêu cầu người được xét hỏi trả lời dạng “có”, “không”. Với tâm lý mất bình tĩnh, sợ hãi của người được xét hỏi nhất là bị cáo thì cách hỏi như vậy dễ thiếu khách quan.
Trong xét hỏi, không được đôi co với người được xét hỏi. Người xét hỏi không được khẳng định công khai tại phiên tòa việc đúng sai về việc khai báo của người được xét hỏi ngay trong quá trình xét hỏi.
3.2. Về trình tự xét hỏi đối với từng người
BLTTHS không quy định phải hỏi ai trước, ai sau. Tùy theo từng vụ án cụ thể, HĐXX tiến hành xét hỏi theo một thứ tự hợp lý. Thông thường, chủ tọa xét hỏi đối với bị cáo trước; đối với vụ án có đồng phạm thì nên chọn bị cáo có vai trò chính hỏi trước, sau đó hỏi bị cáo khác; hoặc có thể chọn bị cáo đã khai nhận tội rõ ràng để xét hỏi trước nếu bị cáo đó có thể cung cấp được những thông tin làm sáng tỏ ngay từ đầu hành vi phạm tội của bị cáo có vai trò chính trong vụ án. Nếu vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, các bị cáo khai không thống nhất, lời khai có sự mâu thuẫn, bị cáo có vai trò chính trong vụ án không thừa nhận hành vi phạm tội thì chủ tọa áp dụng biện pháp cách ly hoặc có kế hoạch xét hỏi phù hợp mà không bắt buộc theo thứ tự trên.
3.3. Về trình tự thực hiện việc xét hỏi
-Tại Điều 307 BLTTHS quy định “1…Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý….2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi”, đây là quy định mang tính nguyên tắc chung. Để vừa thể hiện đúng quy định của pháp luật, vừa bảm đảm tính tranh tụng tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa hỏi trước, nhưng chỉ nên đặt câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, gợi mở chứ không được kết luận. Để xác định sự thật khách quan của vụ án, một người có thể hỏi nhiều lần và cùng một lúc có thể xét hỏi đối với nhiều người để kiểm tra tính xác thực của người được xét hỏi trung tâm, như thế sẽ giúp cho người xét hỏi xác định sự thật khách quan của vụ án toàn diện hơn.
Ví dụ: Trong khi xét hỏi bị cáo, chủ tọa có thể yêu cầu người làm chứng, bị hại khai báo để kiểm tra tính xác thực của người được xét hỏi trung tâm.
-Việc công bố lời khai: Theo Điều 308 BLTTHS quy định “1.Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì HĐXX, Kiểm sát viên không được công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố”
Khi người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì HĐXX, Kiểm sát viên không được nhắc hoặc công bố lời khai của họ tại giai đoạn điều tra trước khi họ khai tại phiên tòa về những tình tiết của vụ án, như vậy làm cho người được xét hỏi hoàn toàn tự nguyện trong việc khai báo, được khai báo đúng sự thật mà không bị ràng buộc bởi lời khai tại cơ quan điều tra. Chỉ được công bố những lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 308 BLTTHS:
“a) Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
- b) Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa hoặc không nhớ những lời khai của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố;
- c) Người được xét hỏi đề nghị công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
- d) Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết”.
3.4. Kỹ năng xét hỏi từng người tham gia tố tụng
3.4.1. Xét hỏi đối với bị cáo
Theo quy định tại khoản 2 Điều 309 BLTTHS thì khi xét hỏi bị cáo, chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Sau đó, HĐXX hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. HĐXX phải lắng nghe lời khai của bị cáo còn thiếu những điểm nào, những điểm nào còn chưa rõ, những điểm nào còn mâu thuẫn … để xác định những điểm mà bị cáo khai còn mâu thuẫn với các chứng cứ khác và yêu cầu bị cáo giải thích về những mâu thuẫn đó.
Nếu trong vụ án có đồng phạm, HĐXX không nhất thiết phải yêu cầu tất cả các bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án; trường hợp này chỉ nên để bị cáo được hỏi đầu tiên trình bày những tình tiết của vụ án, còn các bị cáo khác chỉ trành bày những tình tiết mà bị cáo trình bày đầu tiên không biết hoặc không khai báo và những điểm cần bổ sung lời khai của bị cáo đã khai.
Nếu thấy lời của bị cáo mâu thuẫn với lời khai của bị cáo khác hay người tham gia tố tụng khác thì có thể tiến hành đối chất ngay để xác định sự thật.
Việc xét hỏi đối với bị cáo phải mang tính gợi mở, tạo điều kiện cho bị cáo được khai báo khách quan. Trong quá trình xét hỏi, không chỉ xét hỏi các tình tiết buộc tội mà xét hỏi cả tình tiết gỡ tội, kể cả bị cáo không thừa nhận lời khai tại CQĐT thì cũng không được có thái độ mang tính áp đặt, dọa nạt, ép buộc bị cáo mà cần phải phân tích hỏi và chú ý sự giải thích của bị cáo tại phiên tòa lý do tại cơ quan điều tra khai nhận tội mà tại phiên tòa lại phủ nhận lời khai nhận tội. Cần tập trung làm rõ các tình tiết là yếu tố định tội mà Viện kiểm sát truy tố; các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các vấn đề liên quan đến trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng …
Tại Điều 309 BLTTHS quy định “…Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án”. Do đó,việc xét hỏi những vấn đề liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội thì HĐXX chỉ nên hỏi mang tính gợi mở, còn lại yêu cầu kiểm sát viên hỏi làm rõ để bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Nếu tại phiên tòa, bị cáo đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa thì chủ tọa cần xem xét ý kiến của bị cáo, nếu phù hợp và cần thiết thì chấp ý kiến của bị cáo để làm rõ thêm các tình tiết của vụ án.
3.4.2. Xét hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác
* Đối với bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ
Theo quy định tại Điều 310 BLTTHS “Bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ trình bày những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”
Khi xét hỏi đối với bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ thì nên nêu vấn đề để họ trình bày những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó hỏi về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Tùy từng vụ án cụ thể, có trường hợp bị hại là đối tượng của tội phạm nên biết được cụ thể sự việc phạm tội; trường hợp bị hại không phải là đối tượng của tội phạm mà chỉ là người bị hành vi phạm tội gây thiệt hại thì họ không thể biết được các tình tiết về sự việc phạm tội.
Nếu bị hại biết về sự việc phạm tội thì có thể hỏi bị hại những tình tiết về sự việc phạm tội. Tâm lý chung của nhiều bị hại là căm phẫn với hành vi phạm tội của bị cáo, vì vậy việc xét hỏi đối với bị hại phải có thái độ mềm mỏng thông cảm; không hỏi những câu hỏi làm cho bị hại bức xúc, căm phẫn bị cáo; các vụ án xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của bị hại ví dụ như vụ án hiếp dâm… thì không nên hỏi chi tiết diễn biến sự việc xảy ra…
Nếu bị hại không biết về sự việc phạm tội thì chỉ nên hỏi về tình tiết của vụ án để xác định thiệt hại và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nếu bị hại chết hoặc không thể tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng thì yêu cầu người đại diện hợp pháp của họ trình bày các tình tiết liên quan đến vụ án.
Trường hợp bị hại khai không đúng về mức độ thiệt hại để được bồi thường nhiều hơn, cần hỏi kỹ bị hại về sự thiệt hại và các chi phí cụ thể nhằm làm rõ những điểm không hợp lý trong lời khai và yêu cầu của họ.
Đối với nguyên đơn dân sự, cần chú ý hỏi họ xem có yêu cầu bồi thường thiệt hại hay không, nếu yêu cầu đó đã làm văn bản chưa?yêu cầu họ trình bày quan điểm về việc yêu cầu bồi thường; những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần do hành phạm tội gây ra; trình bày các chứng cứ về các thiệt hại đó …
Đối với bị đơn dân sự: yêu cầu họ trình ý kiến về việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự; hỏi họ về quan hệ giữa bị đơn với trách nhiệm bồi thường. Sau khi họ trình bày xong thì hỏi họ những điểm chưa rõ.
Quá trình xét hỏi về vấn đề bồi thường, cần tạo điều kiện cho các đương sự thỏa thuận với nhau về vấn đề bồi thường
Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Yêu cầu họ trình bày những quyền lợi, nghĩa vụ của họ có liên quan đến vụ án và yêu cầu của họ về việc giải quyết các quyền lợi, nghĩa vụ đó như thế nào? Sau khi họ trình bày, HĐXX hỏi thêm những điểm chưa rõ.
* Đối với người làm chứng
Tại Điều 311 BLTTHS quy định:
“1. Việc hỏi phải được tiến hành riêng đối với từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó.
- Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.
- Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
- Trường hợp có căn cứ xác định người làm chứng, người thân thích của họ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm thì Hội đồng xét xử phải quyết định biện pháp bảo vệ họ theo quy định của Bộ luật này và pháp luật khác có liên quan.
- Trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông”.
Theo quy định thì khi hỏi người làm chứng phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì về cơ sở vật chất của Hội trường xét xử nên khó khăn để thực hiện được yêu cầu “không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó” nên đòi hỏi HĐXX phải linh hoạt, khi cần thiết có thể cách ly để đảm bảo khách quan trong xét hỏi.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 311 BLTTHS thì khi hỏi người làm chứng, HĐXX phải hỏi rõ quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự khác trong vụ án. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng. Nếu người làm chứng không trả lời hoặc không khai tại phiên tòa thì HĐXX, kiểm sát viên có thể công bố lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra. Khi hỏi người làm chứng, chú ý hỏi làm rõ vì sao lại biết được tình tiết của vụ án để đánh giá độ tin cậy về lời khai của người làm chứng.
Theo khoản 4 Điều 311 BLTTHS thì trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và người thân thích của họ, HĐXX phải quyết định biện pháp bảo vệ họ theo quy định của pháp luật. HĐXX hoặc kiểm sát viên đề nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn cho người làm chứng trong những trường hợp cần thiết.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 311 BLTTHS thì “Trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông”. Vì lý do nào đó mà người làm chứng không đến được phiên tòa được và cam đoan trả lời đúng sự thật những vấn đề họ biết được về tình tiết vụ án qua mạng máy tính hoặc mạng viễn thông và phải bảo đảm việc hỏi và trả lời công khai mọi người có thể nghe thấy.
*Đối với người giám định, người định giá tài sản:
Theo Điều 316 của BLTTHS quy định:
“1. Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa yêu cầu người giám định, người định giá tài sản trình bày kết luận của mình về vấn đề được giám định, định giá tài sản. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ để đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản.
- Kiểm sát viên, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án.
- Trường hợp người giám định, người định giá tài sản không có mặt tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định, định giá tài sản.
- Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại, định giá lại tài sản”.
Nếu xét thấy cần thiết phải có mặt của người giám định, người định giá tại phiên tòa thì HĐXX tự mình hoặc theo đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa triệu tập người giám định, người định giá đến để xét hỏi.Việc hỏi người giám định, người định giá tiến hành sau khi họ trình bày ý kiến về vấn đề được giao giám định, định giá giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám định hoặc kết quả của Hội đồng định giá tài sản, chỉ được hỏi những gì còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định. Nếu người giám định, người định giá vắng mặt mà không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định, định giá tài sản.
Tại phiên tòa, sau khi nghe người giám định, người định giá trình bày kết luận giám định, kết quả định giá, nghe họ giải thích bổ sung, nghe những người khác có ý kiến về kết luận giám định, kết quả định giá nếu cần thiết, HĐXX quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại, định giá lại.
Sau khi HĐXX, kiểm sát viên, người bào chữa… đã xét hỏi xong, nếu thấy cần thiết phải làm rõ thêm tình tiết nào của vụ án để làm cơ sở cho việc quyết định của HĐXX thì chủ tọa phiên tòa có thể xét hỏi thêm.
Nếu nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xét hỏi đầy đủ và không ai đề nghị xét hỏi thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, chuyển sang phần tranh luận.
- TRANH LUẬN TẠI TÒA
Về trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy định của Điều 320 BLTTHS:
“1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội.
- Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
- Bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
- Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội”.
Vấn đề tranh luận tại phiên tòa được quy định tại Điều 322 BLTTHS:
“1. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.
- Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
- Chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
- Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của. những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”.
Giải quyết việc trở lại xét hỏi:
Qua tranh luận, nếu thấy có vấn đề gì chưa rõ, cần phải xem xét thêm mới có thể kết luận được thì HĐXX quyết định trở lại phần xét hỏi, khi đã hỏi rõ những vấn đề cần hỏi thêm thì chủ tọa phiên tòa tiếp tục cho tranh luận theo trình tự chung.
Bị cáo nói lời sau cùng
Sau khi tuyên bố kết thúc phần tranh luận, trước khi vào nghị án, chủ tọa phiên tòa cho bị cáo nói lời sau cùng. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án mà chưa được làm rõ thì HĐXX quyết định trở lại xét hỏi để làm rõ.
Sau khi bị cáo trình bày xong lời nói sau cùng, chủ tọa tuyên bố nghỉ để vào nghị án. Nếu dự kiến thời gian nghị án kéo dài sang ngày khác thì chủ tọa thông báo rõ về thời gian tuyên án.
V.NGHỊ ÁN VÀ TUYÊN ÁN
5.1. Nghị án
Khi bắt đầu nghị án, chủ tọa phiên tòa phổ biến nội dung nghị án với đầy đủ các nội dung cần nghị án thông qua diễn biến của phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa cần nêu rõ từng vấn đề nghị án. Theo quy định tại Điều 326 BLTTHS thì các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án gồm:
“a) Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;
- b) Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp;
- c) Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng;
- d) Hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;
đ) Bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không;
- e) Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa;
- g) Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;
- h) Kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm”.
Khi có vấn đề thảo luận chưa thống nhất thì HĐXX trao đổi, chủ tọa phiên tòa giải thích các quy định của pháp luật cho các Hội thẩm nhân dân.
5.2. Tuyên án
Sau khi HĐXX tiến hành nghị án, chủ tọa phiên tòa tuyên án nhằm công bố bản án và các quyết định của HĐXX tại phiên tòa. Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định trong bản án. Qua đó, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác biết được bản án và những quyết định của HĐXX về những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi tuyên án, chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX đọc bản án. Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy để nghe tuyên án. Sau khi đọc xong bản án, có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo. Trường hợp đối với bị cáo được hưởng án treo thì sau khi tuyên án, chủ tọa giải thích về chế định án treo. Nếu HĐXX ra quyết định bắt giam hay trả tự do cho bị cáo ngay sau khi tuyên án, chủ tọa phiên tòa cũng phải công bố và cho thi hành ngay những quyết định đó đối với bị cáo.